Thứ Tư, 29 tháng 4, 2015

CON DẤU


Con Dấu
Phần ngươi, hãy nói cùng dân Y-sơ-ra-ên rằng: Nhất là các ngươi hãy giữ ngày sa-bát ta, vì là một dấu giữa ta và các ngươi, trải qua mọi đời, để thiên hạ biết rằng ta, là Đức Giê-hô-va, làm cho các ngươi nên thánh — Xuất Êdíptô ký 31:13

Có một cửa hàng gần nhà tôi trong thành Jerusalem mà tôi hay lui tới. Một buổi chiều kia, tôi bước  tới gần thì thấy cửa hàng đã đóng cửa rồi. Mấy ngọn đèn đã tắt hết, và tôi không thể nhìn thấy có ai ở bên trong hay không!?! Tôi hình dung rằng mình đã đến quá trễ và cửa hàng đã đóng cửa khi hết ngày. Qua ngày sau, tôi trở lại cửa hàng vào giữa trưa chỉ để thấy một tấm biển nhỏ gắn trên cửa: “Đóng Cửa Rồi”. Sự việc dường như kỳ lạ vào giờ ấy ban ngày. Mấy ngày sau, tấm biển đã được lấy xuống, và khi ấy tôi nhận biết điều chi đã diễn ra: Cửa hàng đã đóng cửa để chờ nhập hàng.

Tại sao tôi lại chia sẻ câu chuyện nầy với bạn chứ? Vì trong phần đọc Ngũ Kinh tuần nầy, Đức Chúa Trời dặn chúng ta phải giữ ngày Sa-bát của Ngài. Phải chú ý cách nói mà Ngài sử dụng: “Các ngươi hãy giữ ngày Sa-bát ta, vì là một dấu giữa ta và các ngươi, trải qua mọi đời…”. Ngày Sa-bát là một dấu hiệu – giống như tấm biển trên cửa hàng vậy. Bao lâu chúng ta tuân giữ ngày Sa-bát, đó là một dấu chúng ta đang mở ra — mở ra với Đức Chúa Trời, mở ra cho sự cải thiện, mởi ra cho một đời sống về mặt thuộc linh và một đời sống đóng góp. Mặc dù chúng ta sa ngã trong tội lỗi suốt cả tuần lễ, giữ ngày Sa-bát là một dấu cho thấy rằng chúng ta vẫn phục theo Đức Chúa Trời. Khi chúng ta không còn công nhận ngày Sa-bát nữa, sự việc giống như chúng ta đã dời tấm biển đi và đóng cửa tiệm lại.

Hãy chú ý, mạng lịnh phải giữ ngày Sa-bát nầy chỉ có mấy câu theo sau một câu nói như sau:Ta cũng đã ban sự thông minh cho mọi người tài năng, hầu cho họ làm các việc ta đã phán dặn ngươi (31:6). Trong câu nầy, Đức Chúa Trời đang nói cho chúng ta biết rằng chính Ngài là Đấng ban cho chúng ta khả năng  và kỹ năng làm được mọi việc mà chúng ta đang làm. Mục đích của ngày Sa-bát – phải nghỉ công việc mà chúng ta thường làm – là để công nhận rằng Đức Chúa Trời là Đấng Tạo Hoá Chí Cao. Ngài là sức mạnh ở đàng sau mọi sự mà chúng ta đang thiết dựng, và nếu không có Ngài, chúng ta chẳng thể làm được chi hết. Như Kinh thánh đã chép, tuân giữ ngày Sa-bát để thiên hạ biết rằng ta, là Đức Giê-hô-va, làm cho các ngươi nên thánh. Đức Chúa Trời là Đấng khiến cho chúng ta có kỹ năng và nên thánh. Ngoài việc ấy ra, chúng ta chẳng có chi hết.

Chúng ta đang sống trong một thế hệ mà ở đó chẳng hề có một nhu cần lớn lao nào quan trọng hơn về ngày Sa-bát. Chúng ta cần một ngày trong một tuần để rút phích cắm ra khỏi sự nhọc nhằn hàng ngày rồi cắm vào Đức Chúa Trời. Bất luận điều chi xảy ra trong 6 ngày thường kia, hãy lấy một ngày rồi dâng ngày ấy cho Đức Chúa Trời là con dấu mà chúng ta vẫn còn mở ra – mở ra cho mối quan hệ đầy ý nghĩa với Đấng Tạo Hoá của chúng ta.


CHIA SẺ TIN LÀNH



Chia Sẻ Tin Lành
“Bấy giờ, họ bèn nói với nhau rằng: Chúng ta làm chẳng phải; ngày nay là ngày có tin lành, và chúng ta nín lặng sao! Nếu chúng ta đợi đến rạng đông, thì sự hình phạt chắc sẽ lâm vào chúng ta. Vậy, ta hãy đi báo tin này cho nhà vua — II Các Vua 7:9

Trong phân đoạn Kinh thánh tuần nầy, chúng ta đọc câu chuyện nói tới ơn cứu rỗi đã đến qua 4 người phung – những người mắc phải cùng một chứng bịnh về mặt thuộc linh được nhắc tới trong phần đọc Kinh thánh hôm nay. Những câu đi trước phần đọc hôm nay cho chúng ta biết rằng đã có một cuộc bao vây tại thành Samaria, một khu vực của Israel, nhà vua và hầu hết dân sự đều sinh sống tại đó. Dân chúng đã bị đói cho đến chết. Tiên tri Êlisê đã đưa ra một lời tuyên bố rằng trong vòng 24 giờ, nạn đói nghiệt ngã kia sẽ kết thúc.

Đây là chỗ mà phần đọc Kinh thánh của chúng ta nhắm tới. Phân đoạn ấy cho chúng ta biết rằng đã có 4 người phung, họ đã được sai ra khỏi thành phố. Họ đã sống trong một tình huống rất hiểm nghèo hơn phần còn lại của xứ sở. Trong hoàn cảnh của họ, nếu không có một sự tiếp trợ nào hết, họ nhận ra rằng chắc sẽ không bao lâu nữa, họ sẽ gục chết. Họ quyết định liều một chuyến. Không cứ cách nào đó thì họ cũng sẽ chết mất đó thôi, họ bèn quyết định liều đầu hàng người Aram, là kẻ thù của Israel, họ đang vây lấy thành.

Bốn người phung ra khỏi thành lúc hoàng hôn; tuy nhiên, khi họ đến tại trại quân của người Aram, họ thấy trại bị bỏ hoang hoàn toàn ở đó! Họ đã không nhận biết đấy thôi, Đức Chúa Trời đã khiến một phép lạ bằng cách tạo một tiếng ồn lớn, nó thuyết phục quân Aram tin rằng Israel đã đưa các đồng minh đến hướng về họ với một quân số thật là đông đảo. Mấy người phung không biết lý do tại sao trại quân bị bỏ hoang trong một phương thức vội vã như thế, họ bỏ hết mọi sự lại sau lưng; mọi sự họ biết, ấy là họ sẽ bị đánh tan hoang.

Lúc đầu, mấy người phung khởi sự thu thập của cải cho chính họ – bạc, vàng, quần áo, và thực phẩm. Nhưng rồi, họ nhóm lại với nhau rồi nói: “Bấy giờ, họ bèn nói với nhau rằng: Chúng ta làm chẳng phải; ngày nay là ngày có tin lành, và chúng ta nín lặng sao! Nếu chúng ta đợi đến rạng đông, thì sự hình phạt chắc sẽ lâm vào chúng ta”. Mấy người phung đã công nhận rằng giữ lấy những tin tức tốt lành cho bản thân họ là một điều rất sai quấy. Những tin tức đem lại sự cứu lấy mạng sống của  họ phải được chia sẻ ngay lập tức.


Ngày nay, chúng ta đang sống trong một thế giới mà hầu hết người ta không bị đói khát theo phần thuộc thể, song có nhiều người chắc chắn đang thiếu thốn sự dinh dưỡng thuộc linh và sự cảm thúc tích cực. Bậc thánh hiền người Do thái dạy rằng người nào đưa ra một báo cáo gian ác, họ sẽ bị hình phạt và kẻ nào có một lời lành phải nói ra, song cứ giữ lời ấy lại cũng đáng bị hình phạt nữa. Khi chúng ta có điều tốt lành phải nói ra – nguyện lời ấy là những tin tức tốt lành, một lời nói cảm thúc, một lời khen ngợi, hoặc một lời nói khích lệ – chúng ta phải nói ra lời ấy ngay lập tức. Ngay cả chậm trễ mấy giờ đồng hồ cũng là quá trễ cho kẻ nào đã ở trong chỗ thất vọng sâu sắc hoặc thiếu thốn về mặt thuộc linh. Vì vậy, lần tới khi Đức Chúa Trời ban cho chúng ta ơn có được những tin tức tốt lành, nguyện chúng ta nên chia sẻ điều đó ra – không chậm trễ.

Thứ Ba, 28 tháng 4, 2015

TÌM KIẾM ĐỨC CHÚA TRỜI VÀ ĐƯỢC PHƯỚC


Tìm Kiếm Đức Chúa Trời và Được Phước
Nguyện hết thảy người nào tìm cầu Chúa, được mừng rỡ vui vẻ nơi Chúa; Nguyện những kẻ yêu mến sự cứu rỗi của Chúa Hằng nói rằng: Đáng tôn Đức Chúa Trời oai nghi thay! — Thi thiên 70:4

Trong tất cả các sách kể cả kinh Torah, có vô số những sách khác đã được kể đến. Một số lời nói tiên tri của những vì tiên tri được kể đến trong Kinh thánh, nhiều lời tiên tri khác đã không được chép vào đấy. Thí dụ, sách Ápđia là một chương thật dài. Có phải bạn nghĩ rằng Ápđia chỉ nói tiên tri có một chương trọn cả đời sống của ông chăng? Không! Dù vậy, đấy là chương duy nhứt đã được ghi chép lại. Tại sao chứ? Vì trong mọi việc kỳ diệu đã được loan báo trước khoảng hơn mấy ngàn năm, chỉ có những lời lẽ được kinh điển hoá trong kinh Torah là những lời lẽ có liên quan đời đời với mỗi và từng thế hệ.

Với nền tảng ấy, chúng ta hãy nhìn vào câu Kinh thánh nầy từ Thi thiên 70: “Nguyện hết thảy người nào tìm cầu Chúa, được mừng rỡ vui vẻ nơi Chúa”. Vua David công bố rằng “hết thảy” – từng người một trong mọi thời đại – người nào tìm kiếm Đức Chúa Trời sẽ được ban thưởng với sự mừng rỡ và vui vẻ nơi Ngài. Không những là một vài người, không chỉ là hạng người công nghĩa trọn vẹn, mà là hết thảy mọi người. Mấy lời nầy thì rất thích đáng với hôm nay cũng như chúng thích đáng khi David lần đầu tiên viết chúng ra cách đây bao ngàn năm. Hãy hình dung đi, bạn đang đứng trước mặt David hôm nay, và ông đưa ra lời hứa nầy cách riêng tư với bạn: “Hãy tìm kiếm Đức Chúa Trời thì bạn sẽ được phước”. Làm sao khoác được mùa xuân vào trong các bước chân của bạn chứ?

Thực sự việc ấy rất đơn giản. Tuy nhiên, có nhiều người gặp khó khăn không biết cách thức tìm kiếm Đức Chúa Trời. Tìm kiếm Đức Chúa Trời có nghĩa gì chứ? Trong I Sử ký 22:19, chúng ta đọc: Vậy bây giờ, hãy hết lòng hết ý tìm cầu Giê-hô-va Đức Chúa Trời của các ngươi”. Tìm kiếm Đức Chúa Trời có nghĩa là dâng tấm lòng và linh hồn của bạn vào việc tìm kiếm Ngài trong từng tình huống, trong từng phút một, trong từng ngày.
Tìm kiếm Đức Chúa Trời có nghĩa là hãy bước ra ngoài, nhìn ngắm cõi thiên nhiên và tìm kiếm Đấng Tạo Hoá. Cái nhìn ngắm đó ý nói nhìn vào con cái xinh đẹp hay loài thú tốt tươi rồi tìm kiếm Đức Chúa Trời, là Đấng Dựng Nên chúng. Tìm kiếm Đức Chúa Trời cũng có ý nói rằng lúc bạn nhìn thấy bản thân mình trong khi đối đầu khó chịu ở sở làm cũng như trong gia đình, chúng ta cần phải nhìn qua bên kia mọi hoàn cảnh rồi nhìn thấy cách thức Đức Chúa Trời đang vận dụng tình huống vì điều tốt đẹp nhất cho chúng ta. Đúng là rất mừng rỡ vui vẻ khi nhận biết rằng ngay cả những khoảnh khắc trăn trở nhất đều đến từ Đức Chúa Trời vì sự ích cho!

Tìm kiếm Đức Chúa Trời theo cách chắc chắn nhất bao gồm việc học hỏi Lời của Ngài và nắm bắt các sứ điệp của Ngài. Điều nầy có nghĩa là kêu cầu với Đức Chúa Trời trong sự cầu xin , khẫn nguyện. Khi  chúng ta để lòng vào việc tìm kiếm Đức Chúa Trời, chúng ta có thể tìm gặp Ngài trong mọi sự chúng ta làm, và với suy nghĩ ấy, David hứa sự mừng rỡ vui vẻ.

Bạn tìm kiếm Đức Chúa Trời như thế nào hôm nay? Hãy giữ Đức Chúa Trời ở vị trí thứ nhứt trong nhận thức của bạn và hãy chú ý bạn được đầy dẫy sự mừng rỡ vui vẻ thể nào khi bạn công nhận rằng Đức Chúa Trời đang hiện diện ở khắp mọi nơi khi chúng ta tìm kiếm Ngài.


Chủ Nhật, 26 tháng 4, 2015

DẦU TRONG LÚC TUỔI GIÀ


Dầu Trong Lúc Tuổi Già
Xin Chúa chớ từ bỏ tôi trong thì già cả; Cũng đừng lìa khỏi tôi khi sức tôi hao mòn — Thi thiên 71:9

Theo truyền khẩu của người Do thái, Thi thiên 71 do David sáng tác trong khi có sự nổi loạn do con trai ông là Ápsalôm cầm đầu. Trong khi David còn trẻ tuổi, lúc Vua Saulơ thường xuyên truy kích ông, David đã được nâng đỡ bởi lời hứa cho rằng một ngày kia ông sẽ lên ngôi làm Vua rồi sống hết đời mình. Tuy nhiên, lần nầy David đã được 65  tuổi rồi. Thời tuổi trẻ của ông đã ở sau lưng và tuổi già đang ở trước mặt ông. Ông lo rằng chiến trận nầy có thể là trận chiến sau cùng và nó sẽ là phần kết cho cuộc đời của ông. Trong Thi thiên nầy, David đã kêu la cùng Đức Chúa Trời: Xin Chúa chớ từ bỏ tôi trong thì già cả; Cũng đừng lìa khỏi tôi khi sức tôi hao mòn”.

Bậc thánh hiền Do thái chú vào cuộc trò chuyện mà David đã có với Đức Chúa Trời trong suốt thời gian loạn lạc nầy. Theo bậc thánh hiền, David đã thưa với Đức Chúa Trời: “Khi tôi còn trẻ và mạnh sức, tôi đã đặt mạng sống tôi vào chỗ hiểm nguy để dẫn dắt con cái của Ngài, con cái Israel vào trong chiến trận. Song giờ đây, tôi đã cao tuổi rồi, họ chẳng còn xem trọng tôi, và họ nói: Nó sẽ chết chừng nào? Danh nó sẽ diệt khi nào? (Thi thiên 41:5). Đức Chúa Trời đã đáp trả với lời lẽ của tiên tri Êsai: “Cho đến chừng các ngươi già cả, đầu râu tóc bạc, ta cũng sẽ bồng-ẵm các ngươi. Ta đã làm ra, thì sẽ còn gánh vác các ngươi nữa. Ta sẽ bồng ẵm và giải cứu các ngươi (Êsai 46:4). Và quả thực vậy, Đức Chúa Trời đã làm y như thế. David đã đắc thắng rồi trở về thành Jerusalem làm Vua của Israel.

Lời lẽ thành khẩn của David trong Thi thiên nầy, cầu xin Đức Chúa Trời ở cùng ông trong lúc tuổi già, đã có ý nghĩa rất đặc biệt cho hết thảy những ai may mắn đủ để khiến tuổi ấy trở thành “tuổi vàng son” của mình. Thật là phước hạnh khi sống một cuộc sống vào lúc cao tuổi, song đấy chẳng phải là một sự tồn tại mà chúng ta mong nhắm tới đâu; chúng ta mong muốn cuộc sống với các mối quan hệ và những kinh nghiệm đầy ý nghĩa, khả năng đóng góp, và sự bình an khi mọi nhu cần của chúng ta đều được thoả. Thường thì tuổi già là thời điểm dễ bị tổn thương và là nguồn lo sợ cho nhiều người. Câu Kinh thánh nầy và Thi thiên nầy góp phần như một thứ dầu chữa lành tái bảo đảm cho chúng ta rằng Đức Chúa Trời sẽ ở cùng chúng ta ngay cả những năm tháng sau cùng của chúng ta. Chúng ta không cần phải lo sợ vì Ngài sẽ ở cùng chúng ta.

Bậc thánh hiền dạy rằng câu Kinh thánh nầy cũng có thể áp dụng cho những thời điểm trong cuộc đời chúng ta khi chúng ta còn trẻ nữa. Có những lúc khi chúng ta cảm thấy mệt mỏi, yếu sức, và thiếu sức sống. Giống như người già vẫn thấy trẻ trung ở trong lòng, cũng có hạng người hãy còn trẻ lại quá già yếu ở trong lòng. Đối với những thời khắc thể ấy, Thi thiên nầy là một bài cầu nguyện đem lại nhiều năng lực.


Chúng ta hãy lãnh lấy sự an ủi nơi lời lẽ của David và lời hứa của Đức Chúa Trời nơi Êsai. Nguyện Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta vào ngày đầu tiên và ngày cuối cùng của chúng ta – và mỗi ngày giữa đó nữa.

MỘT QUỐC GIA TÁI SINH


Một Quốc Gia Tái Sinh
Ai đã hề nghe một sự thể nầy? Ai đã hề thấy sự gì giống như vậy? Nước há dễ sanh ra trong một ngày, dân tộc há dễ sanh ra trong một chặp? Mà Si-ôn mới vừa nằm nôi, đã sanh con cái” — Êsai 66:8

Khi mặt trời mọc vào ngày 4 tháng Iyar Hybálai và ngày 5 tháng Iyar bắt đầu, dân tộc Do thái bước vào một sự thay đổi lớn. Than khóc đổi thành lễ hội; khóc than sự mất mát những người đã phó mạng sống họ cho xứ sở của chúng ta chuyển thành vui mừng với sự thực: chúng ta có một quốc gia. Yom HaZikaron, Ngày Tưởng Niệm của dân Israel, trở thành Yom HaAtzmaut, Ngày Lễ Độc Lập của người Do thái. Pháo bông nổ vang trên bầu trời khi chúng ta tưởng niệm phép lạ: ấy là Quốc Gia Do thái hiện nay.

Cách nay 67 năm, bối cảnh hoàn toàn rất quen thuộc Vào lúc 4 giờ chiều nhằm ngày 4 tháng Iyar, người Anh đã hạ cờ xuống trên khắp xứ, kết thúc gần hai thiên niên kỷ sự chiếm đóng của người nước ngoài. Ngay lập tức, dân Israel giương cao ngọn cờ của chính họ. Lá cờ, đã được thiết kế vào năm 1897 bởi Tổ Chức Siôn Đầu Tiên, là màu trắng, làm biểu tượng cho sự tươi mới và tinh sạch. Nó có hai lằn màu xanh, là màu trời, giống với chiếc khăn choàng cầu nguyện, tiêu biểu cho truyền thống của người Do thái. Ở phần trung tâm là Ngôi Sao David, gợi nhớ lại vị Vua đầu tiên của Israel cai trị từ thủ đô Jerusalem. Trong khi người Do thái buộc phải bị hất ra khỏi xứ sở của họ hàng ngàn năm trước đó, họ không bao giờ ngừng khao khát được về lại xứ sở, muốn có lại  xứ sở và phục hồi lại chủ quyền của họ. Sau cùng thì giấc mơ cũng đã trở thành một thực tại, dường như chỉ là qua một đêm thôi.

Hàng ngàn năm trước đó, tiên tri Êsai đã viết: “Ai đã hề nghe một sự thể nầy? Ai đã hề thấy sự gì giống như vậy? Nước há dễ sanh ra trong một ngày, dân tộc há dễ sanh ra trong một chặp?”Lời lẽ ấy dường như đã được ghi ra vào ngày 14 tháng 5 năm 1948, khi Israel tự tuyên bố mình là một quốc gia đã được độc lập một lần nữa. Lạ lùng thay, sau gần hai ngàn năm, lời tiên tri đã được ứng nghiệm và có nhiều lời tiên tri đã được phục hồi và dân Do thái đang trở về lại quê hương.

David Ben-Gurion, vị Thủ tướng đầu tiên, đã đọc Bản Tuyên Ngôn Độc Lập. Sự độc lập qua đài phát thanh nhằm vào ngày thứ nhứt của ngày Sabát khi có nhiều người bật khóc vì vui sướng. Ông khởi sự như sau: “Xứ sở Israel là nơi dân Do thái chào đời. Đây là lại lịch thuộc linh, lai lịch tôn giáo, và lai lịch dân tộc đã được hình thành. Ở đây, họ đã đạt được tình trạng độc lập và đã dựng lên một xã hội có tầm quan trọng của quốc gia và của thế giới. Ở đây, họ đã viết ra và đã cung ứng Kinh thánh cho thế giới …“. Khi Ben-Gurion đọc xong bài tuyên ngôn, một lời chúc phước đã được đưa ra ngợi khen Đức Chúa Trời vì đã đưa chúng ta đến với ngày ấy, theo sau là bài quốc ca Do thái, Hatikvah, “Niềm Hy Vọng”.

Quí bạn ơi, khi chúng ta kỷ niệm sự độc lập của dân Israel hôm nay, chúng ta hãy mở mắt ra rồi nhìn xem phép lạ về sự độc lập đó. Chúng ta hãy ngợi khen Đức Chúa Trời vì mọi sự mà Ngài đã làm và bản thân tái cam kết thực hiện phần của mình trong việc thực hiện sự ứng nghiệm hoàn toàn từng lời tiên tri trong Kinh thánh và mỗi một lời hứa của Đức Chúa Trời.


Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

THẮNG HƠN BỔN TÁNH



Thắng Hơn Bổn Tánh
Song dân Y-sơ-ra-ên đi giữa biển như trên đất cạn; nước làm thành vách ngăn bên hữu và bên tả — Xuất Êdíptô ký 14:29
Hết thảy chúng ta chào đời với một bổn tánh thật là độc đáo. Muốn tốt hơn hay xấu đi, chúng ta phải có những khuynh hướng nhất định, cả về điểm mạnh và yếu điểm nữa. Thường thì chúng ta đạt được thành công nhất khi chúng ta hoạt động trong các lãnh vực mạnh của mình. Nhưng cũng có những lúc, khi chúng ta được kêu gọi phải thắng hơn những yếu điểm tự nhiên của mình là những thứ trì kéo chúng ta lại đối với cuộc sống mà chúng ta muốn sống. Đôi khi, chúng ta cần mạnh mẽ một chút thôi để chúng ta phải đi ngược lại với bổn tánh của mình hầu cho chúng ta cứ tấn tới trong đời sống của chúng ta.

Trong bầu không khí của câu chuyện Xuất Aicập, biển chia ra làm hai và dân Do thái đi qua biển như đi trên đất khô. Biển cả, theo bản chất thì gắn kết, tuôn chảy, và không có đường biên giới, đột nhiên cứng rắn giống như các bức tường: “Song dân Y-sơ-ra-ên đi giữa biển như trên đất cạn; nước làm thành vách ngăn bên hữu và bên tả”.

Bậc thánh hiền người Do thái đưa ra lời bình rất hay, là biển phải đi ngược lại với bản chất của nó vì cớ  hài cốt của Giôsép vốn hiện diện ở đó đang khi biển chia ra làm hai. Nếu bạn còn nhớ, Giôsép đã khiến dân Do thái phải hứa đưa hài cốt của ông ra khỏi Aicập khi họ rời khỏi đó, và họ đã thực hiện tốt phần hứa hẹn của mình. Trong Thi thiên 114:3, chúng ta đọc: Biển thấy sự ấy, bèn chạy trốn…”. Thế nhưng, biển thấy sự gì mới được chứ?

Theo truyền khẫu, đấy là hài cốt của Giôsép, và đó là một sự nhắc nhớ đầy năng quyền về một người đi ngược lại với chính bổn tánh của mình. Khi Giôsép còn là một thanh niên, người vợ xinh đẹp và nhiều quyền lực của chủ ông là Phôtipha, đã tìm cách quyến dụ ông. Tuy nhiên, Giôsép đã đi ngược lại với các khuynh hướng con người của mình, ông đã kháng cự sự cám dỗ, rồi bỏ chạy tránh vợ của Phôtipha. Trong chỗ tôn trọng ông, biển cả đã đi ngược lại với bản chất của nó rồi cũng chạy trốn nữa, tạo ra một con đường cho dân Do thái đến với sự tự do và được cứu chuộc.

Tôi đã nhìn xem câu chuyện nầy ở một mặt khác. Chúng ta biết rõ điều chi đã cảm thúc đại dương kia, còn ai đã cảm thúc Giôsép chứ? Có một câu trả lời, ấy là ông đã nhận câu trả lời đó từ mẹ ông là Rachên, bà đã đi ngược lại với bổn tánh riêng của mình đối với những gì xảy có trong đêm tân hôn của bà. Mặc dù Rachên vốn yêu mến sâu sắc đối với Giacốp và đã chờ đợi ròng rã 7 năm trời để thành hôn với ông, bà đã đi ngược lại với bổn tánh của mình và đã chịu để cho chị mình là Lêa đội lốt mình là Rachên và đã trở thành cô dâu của Giacốp. Rachên đã sống vô kỷ và đã chạy trốn đối với những ham muốn của riêng mình vì cớ hạnh phúc và sự đáng yêu của chị mình.


Trong mọi cảnh ngộ như thế nầy – Giôsép, Rachên, và biển cả – đi ngược lại với bản chất tạm thời, song cần thiết cách hoàn toàn. Tương tự, chúng ta được kêu gọi vào những thời điểm phải đi ngược lại với bản chất của mình vì một mục đích cao kỳ hơn. Chúng ta được khích lệ nhiều khi gom góp sức lực rồi chia tay với bản chất mình dù chỉ trong một phút thôi. Một phút tự hy sinh có thể dẫn tới ơn cứu rỗi trọn cả đời.

Thứ Sáu, 24 tháng 4, 2015

LỜI NÓI NẮN ĐÚC THẾ GIỚI CỦA CHÚNG TA



Lời Nói Nắn Đúc Thế Giới Của Chúng Ta
 Nầy là luật lệ cho kẻ phung về ngày nó được sạch. Người ta sẽ dẫn người phung đến thầy tế lễ — Lêvi ký 14:2

Tuần nầy chúng ta đọc phân đoạn Ngũ kinh có hai phần, cả hai phần ấy xử lý với luật lệ liên quan tới một người mắc “bịnh ô uế về da”, thường được đề cập đến trong Anh ngữ là leprosy [bịnh phung]. Phần đọc thứ hai bắt đầu như sau: Nầy là luật lệ cho kẻ phung…”. Từ ngữ Hybálai nói tới “người mắc bệnh” ở trong câu là metzorah. Bậc thánh hiền Do thái cắt từ nầy ra thành hai chữ Hybálai: motzi rah, được dịch như sau: “Người nào đồn tiếng ác về người khác”. Theo bậc thánh hiền, nguyên nhân gốc của bịnh ô uế về da mà Kinh thánh để ra một lượng thời gian và vị trí đáng kể bàn tới là thày lay [ngồi lê đôi mách].

Để nhấn mạnh tính nghiêm trọng của việc sử dụng lời nói cho các ý định gian ác, bậc thánh hiền trưng dẫn từ sách Amốt: Thật, ấy là Ngài đã làm nên các núi và dựng nên gió. Ấy là Ngài làm cho người ta biết ý tưởng riêng của mình. . .” (4:13). Ở vế sau của câu nầy, bậc thánh hiền giải thích rằng trong giờ phán xét của từng người một, Đức Chúa Trời sẽ tỏ ra những lời nói chơi giữa người ta với nhau một khi chúng là những lời nói không xứng đáng. Không một câu nào bị bỏ qua hay quên mất đâu.

Tuy nhiên, đâu là sự nối kết giữa sứ điệp nói tới tầm quan trọng nơi lời nói của chúng ta và phần thứ nhứt của câu nói gợi lại cho biết Đức Chúa Trời đã dựng nên các núi và gió chứ?

Một người, khi cứ lo nói xấu, sẽ tưởng rằng lời lẽ của mình là vô hại. Chúng sẽ trôi đi và biến mất trong cơn gió. Lời lẽ của chúng ta giống như hơi thở mau qua; chẳng gây hại gì hết đâu. Tuy nhiên, trong câu Kinh thánh từ sách Ôsê, Đức Chúa Trời đã chỉ ra rằng trong khi Ngài dựng nên các ngọn núi lớn, Ngài cũng dựng nên ngọn gió trông dường mạnh mẽ kia.

Gió trông dường như vô thưởng vô phạt. Bạn không thể nhìn thấy hay chạm đến gió được. Có nhiều khi, dường như gió chẳng thấy đâu hết. Thế mà, khi ngọn gió mạnh thổi đến, nó có thể bào mòn thậm chí cả những ngọn núi to lớn nhất. Cũng một thể ấy, mặc dầu lời nói của chúng ta có thể chẳng ăn nhập gì hết, thực vậy, chúng vốn có quyền lực giống như một cơn gió thổi dữ đội kia. Lời lẽ của chúng ta có thể làm chao đảo kẻ mạnh sức và gây ra một lượng hủy diệt thật khủng khiếp lắm.

Tuy nhiên, chúng ta cũng phải nhớ rằng có những ngọn gió có thể đưa một con chim bay lên thật cao. Đây là sức mạnh nâng một chiếc máy bay lên như một phép lạ cho chuyến bay của loài người. Một ngọn gió nhẹ vô tư vuốt ve khuôn mặt của bạn vào một ngày mùa xuân ấm áp và đem lại sự khuây khoả mát mẻ vào buổi trưa hè oi bức kia. Đó cũng là phương tiện bởi đó Đức Chúa Trời chia Biển Đỏ ra làm hai.


Tương tự, lời nói của chúng ta có thể nâng người ta lên. Chúng có thể yên ủi người khác và cung ứng một cái chạm yêu thương. Lời nói của chúng ta, khi được sử dụng thích đáng, có thể tạo ra nhiều phép lạ. Chúng ta hãy suy nghĩ đến sức mạnh của lời nói chúng ta hôm nay. Chúng ta không thể nhìn thấy hay chạm đến chúng, nhưng chúng là sức mạnh có thể nắn đúc thế giới của chúng ta, vì vậy hãy lựa chọn chúng cách khôn ngoan.

Thứ Tư, 22 tháng 4, 2015

MỘT NGÀY ĐỂ NHỚ



Một Ngày Để Nhớ
Hãy nhớ lại những ngày xưa; Suy xét những năm của các đời trước; Hãy hạch hỏi cha ngươi, người sẽ dạy cho. Cùng các trưởng lão, họ sẽ nói cho — Phục truyền luật lệ ký 32:7

Hôm nay là Ngày Tưởng Nhớ của Israel. Trong sách Phục truyền luật lệ ký, chúng ta đọc: Hãy nhớ lại những ngày xưa; Suy xét những năm của các đời trước; Hãy hạch hỏi cha ngươi, người sẽ dạy cho. Cùng các trưởng lão, họ sẽ nói cho. Ghi nhớ quá khứ luôn luôn là một giá trị nền tảng trong Do thái giáo. Từ Hybálai nói tới “nhớ” là zakor, và chính từ chữ nầy mà ngày nầy có được cái tên của nó: Yom HaZikaron, Ngày Tưởng Nhớ. Vào ngày nầy, chúng ta tưởng nhớ hết thảy những ai đã dâng mạng sống của họ trong khi thiết lập và bảo vệ Quốc Gia Do thái ngày nay.

Vào năm 1947, ngay sau khi Israel đã đạt được là phiếu của Liên Hiệp Quốc về một quốc gia Do thái, David Ben-Gurion, vị Thủ Tướng đầu tiên của Israel, đã thốt ra lời lẽ sâu sắc như sau: “Khi tôi về lại Jerusalem, tôi đã nhìn thấy thành phố hạnh phúc và vui mừng, nhảy múa trên các đường phố và một đoàn đông nhóm lại trong sân của toà nhà Cơ quan của người Do thái. Tôi nhìn nhận sự thực – niềm vui mừng ấy không phải là phần của tôi – không phải vì tôi đã không tán thưởng quyết định của Liên Hiệp Quốc, mà vì tôi biết những gì đang đứng đợi chúng tôi: chiến tranh với mọi kẻ thù trong các quốc gia Ảrập”.

Mấy lời nói sâu sắc nầy là sự thực. Trước khi giấc mơ về địa vị quốc gia có thể được công nhận, sẽ có nhiều chiến tranh, đổ máu, và nước mắt.

Cùng thời điểm ấy, Chaim Weizmann, vị Tổng Thống đầu tiên của Israel, đã đưa ra lời nhận xét tương tự mà về sau đã được nổi tiếng. Ông nói: “Quốc gia sẽ không được trao cho người Do thái trên cái đĩa bằng bạc đâu”. Ông cũng nhìn biết rằng sẽ có một cái giá phải trả cho địa vị quốc gia của người Do thái. Nắm bắt được mấy lời nầy, thi sĩ người Do thái là Natan Alterman đã viết ra một bài thơ thật hay, làm xao động cả tấm lòng có đề tựa là “Chiếc Đĩa Bạc”.

Trong bài thơ ấy, ông mô tả một đôi trẻ nam nữ, bẩn thỉu và kiệt sức vì chiến tranh. Khi chúng đến gần nhau, chúng hỏi: “Bạn là ai?” Chúng trả lời: “Chúng ta là chiếc đĩa bạc, trên đó quốc gia Do thái đã hình thành”. Vị thi sĩ kết luận: “Chúng sẽ nói thế rồi rơi trở lại trong bóng tối. Và phần còn lại sẽ được kể vào các chương lịch sử của Israel”.

Trong xứ Israel, Yom HaZikaron không phải là một ngày mua sắm hay nấu nướng. Đây là một ngày khi hầu hết các gia đình Do thái ngồi lại với nhau và tưởng niệm những thanh niên nam nữ kia, họ đã hy sinh mạng sống của họ để chúng ta có thể có một quê hương. Chúng ta tôn vinh những người nào đã trở thành cái “đĩa bạc”, trên đó quốc gia chúng ta đã được trao cho chúng ta. Chúng ta đem họ ra khỏi những cái bóng tối của quá khứ và thuật lại những câu chuyện của họ.


Dù bạn đang sống trong bất kỳ quốc gia nào, những cơ hội là ai đó đã gục chết để bạn có thể sống trong sự tự do và thịnh vượng. Chúng ta hãy dành thì giờ để tưởng nhớ và tôn vinh những người đã chịu chết vì sự tự do của chúng ta. Chúng ta hãy nguyện rằng không một sinh mạng nào khác cần phải hy sinh để bảo đảm sự tự do mà hết thảy chúng ta đáng được.

Thứ Ba, 21 tháng 4, 2015

LÚT ĐẦU



Lút Đầu
Đức Chúa Trời ôi! xin cứu tôi, Vì những nước đã thấu đến linh hồn tôi. Tôi lún trong bùn sâu, nơi không đụng cẳng; Tôi bị chìm trong nước sâu, dòng nước ngập tôi — Thi thiên 69:1–2

Vào ngày 15 tháng Giêng năm 2009, chuyến bay hàng không Mỹ 1549 thực hiện cuộc đáp khẫn cấp trên sông  Hudson của thành phố Nữu Ước sau khi bầy chim bay thẳng vào trong bộ máy của máy bay, khiến cho cả hai động cơ không còn hoạt động được nữa. Cuộc hạ cánh, trong đó chẳng mất một mạng nào, ai cũng biết là “Phép Lạ Trên Sông Hudson”.

Tuy nhiên, cuộc hạ cánh khẫn dường như suông sẻ từ phía trước của máy bay, một câu chuyện đáng sợ ở phía sau của máy bay, ở đó chịu lấy gánh nặng của cái chạm. Cái chạm mạnh mẽ ấy làm rách một lỗ hỗng ở thân dưới máy bay, khiến cho nước tràn vào bên trong. Tiếp viên Doreen Welsh, thành viên phi hành đoàn duy nhứt có mặt ở thân sau máy bay, đã mô tả tình huống chuyển từ xấu đến tồi tệ hơn. Sau khi nhận ra họ đã rơi xuống sông và không phải trên đường băng, Doreen đã nhận ra ngay nước đang tràn nhanh vào và người ta ở chung quanh cô đã bị sốc, không thể di chuyển và chắc máy bay sẽ bị chìm nhanh chóng.

Doreen mô tả nước lạnh bắt từ hông lên đến cổ của cô. Ở điểm nầy cô tin chắc cuộc sống mình sắp sửa đi đến chỗ kết thúc rồi. Cô chẳng có cách nào nhận biết ở phía trước máy bay không bị nước tràn vào và hy vọng đang có ở trước mặt. Thế rồi đột nhiên, khi các hành khách chuyển lên phía trước, Doreen liền nhận ra rằng cô rốt cuộc rồi sẽ sống, và quả thực cô đã sống.

Tôi nghĩ rằng những gì Doreen Welsh đã trải qua ở cấp độ thuộc thể, nhiều người trong chúng ta đang kinh nghiệm ở một cấp độ về thuộc linh, lý trí, hay cảm xúc. Như David đã viết ở Thi thiên 69: Đức Chúa Trời ôi! xin cứu tôi, Vì những nước đã thấu đến linh hồn tôi. Tôi lún trong bùn sâu, nơi không đụng cẳng; Tôi bị chìm trong nước sâu, dòng nước ngập tôi”. 

Đôi khi, cuộc sống có thể phủ lút đến nỗi chúng ta cảm thấy như mình đang bị nhấn chìm. Hoàn cảnh dường như khó thở và không bao lâu nữa thì nước sẽ phủ lút đầu của chúng ta, không còn nổi lên được nữa. Thế nhưng Thi thiên 69 nhắc cho chúng ta nhớ rằng vô luận hoàn cảnh có vô vọng dường nào, luôn luôn có hy vọng mình sẽ được cứu đấy.

Ở phần đầu của Thi thiên, David đã cầu xin rằng Đức Chúa Trời sẽ cứu ông ra khỏi dòng nước đã đe doạ nhấn chìm ông. Đến cuối Thi thiên, David nhất định rằng Đức Chúa Trời sẽ cứu vớt ông. Chúng ta đọc ở câu 30: Tôi sẽ dùng bài hát mà ngợi khen danh Đức Chúa Trời, và lấy sự cảm tạ mà tôn cao Ngài”.


Hãy nhớ, khi bạn cảm thấy như mình bị ngập chìm trong dòng nước quá lâu, hoặc dòng nước sẽ lên tới cổ của bạn, đe doạ nhấn chìm bạn, các phép lạ đang xảy ra. Hãy nắm lấy và bám chắc lấy Đức Chúa Trời. Đừng bao giờ buông ra cho đến khi được Ngài cứu vớt.

Thứ Hai, 20 tháng 4, 2015

NGỢI KHEN KHI ĐỐI MẶT VỚI THẢM HOẠ



Ngợi Khen Khi Đối Mặt với Thảm Hoạ
“Môi-se và A-rôn bèn vào hội mạc, kế lại ra chúc phước cho dân sự; sự vinh quang của Đức Giê-hô-va hiện ra cùng cả dân sự” — Lêvi ký 9:23

Trong một câu Kinh thánh nếu như được xem xét kỹ, thì thấy rằng Môise và Arôn bước vào hội mạc rồi khi họ bước ra, họ đã chúc phước cho dân sự. Thắc mắc là: điều chi đã xảy có trong hội mạc?

Nhà giải kinh Do thái với sự nghiên cứu rộng rãi là Rashi, từ nước Pháp vào thế kỷ thứ 11, đã giải thích rằng trong hội mạc Môise đã dạy cho Arôn biết “về sự dâng hương”. Tuy nhiên, bậc thánh hiền Do thái chưa thấy thoả mãn lắm với giải đáp nầy. Tại sao Môise không dạy cho Arôn biết các luật lệ của sự xông hương cùng một lúc với việc ông giải thích mọi nghi thức dâng các thứ của lễ khác?

Theo bậc thánh hiền, trong khi ở trong hội mạc Môise đã sửa soạn Arôn cho thảm kịch quan trọng sắp sửa xảy ra cho hai con trai của ông là Nađáp và Abihu, họ đã ngã chết ngay tức khắc vì đã dâng hương vào thời điểm khi họ không được kêu gọi phải làm công việc ấy. Đây là những gì Rashi muốn nói khi ông cho rằng Môise đã dạy cho Arôn “về sự dâng hương” – Môise đã dạy cho Arôn biết những điều ông sẽ cần phải biết để đối mặt với thảm kịch bằng đức tin và sự kiên cường.

Trong hội mạc Môise đã dạy cho Arôn phải ngợi khen Đức Chúa Trời khi bị buồn rầu áp bắt. Môise đã dạy cho Arôn biết rằng chúng ta phục vụ Đức Chúa Trời trong các thời điểm tốt và xấu. Ông đã dạy cho Arôn biết rằng chính Đức Chúa Trời là Đấng ban cho cũng là Đấng có quyền cất đi. Cách long trọng nhất để tôn vinh Ngài là phải ngợi khen dầu khi chúng ta đang bị tổn thương.

Đây là những gì đã khiến cho Arôn có khả năng phản ứng trước cái chết của hai con trai mình, chỉ mấy câu sau đó thôi, với sự tin kính thể ấy đối với Đức Chúa Trời. Chúng ta lùi lại kinh ngạc với ân điển và đức tin thể ấy, nhưng tôi muốn mọi người đều nhận biết rằng hạng người như Arôn hãy còn tồn tại hôm nay. Israel chẳng lạ lùng gì với thảm hoạ, và buồn thay, chỉ trong năm ngoái thôi đã có nhiều bậc phụ huynh đã rơi vào cảnh tang chế. Tuy nhiên, hãy lắng nghe một số người trong họ đã nói. Gần như là hầu hết, sau khi mất đi 7 đứa con trong một vụ cháy nhà, Gabriel Sassoon đã nói trong điếu văn của ông: “Đức Chúa Trời Toàn Năng đã cầm lấy 7 đoá hoa hồng. Ngài giữ lấy mấy đứa con của tôi và các cháu của tôi trong tương lai, có thể là 70 hay 80 người cả thảy, những nụ cười của chúng. Đối với Ngài là Đức Chúa Trời của tôi, tôi xin dâng hết thảy. Linh hồn tôi, mọi sự của tôi”.

Và Adva Biton, bà mẹ của Adele 4 tuổi, nó đã qua đời vì thương tích do bọn khủng bố gây ra, vẫn ngợi khen Đức Chúa Trời tại tang lễ: “Đấng Tạo Hoá của vũ trụ đã ban cho tôi một món quà tuyệt vời làm vinh dự cho dân sự Israel . . . Giờ đây Chủ Tể của Vũ Trụ đã đón nó về lại với Ngài”.


Đúng là sức lực! Đúng là đức tin! Tôi muốn khích lệ hết thảy chúng ta cần phải chuẩn bị sẵn để đối mặt với bất cứ điều chi Đức Chúa Trời đưa vào trong đường lối của chúng ta với sự trang trọng, ân điển, đức tin và tình yêu thương. Nếu những con người lạ lùng nầy vẫn cứ ngợi khen Đức Chúa Trời ở giữa đau khổ như vậy, chắc chắn chúng ta có thể ngợi khen Đức Chúa Trời bất chấp những bất tiện nhỏ nhoi mà chúng ta đang đối diện với trong thời của chúng ta.

Chủ Nhật, 19 tháng 4, 2015

CHỈ SỐNG CHO ĐỨC CHÚA TRỜI



Chỉ Sống Cho Đức Chúa Trời
Đa-vít cũng trở về đặng chúc phước cho nhà mình; nhưng Mi-canh, con gái của Sau-lơ, đến đón người, mà nói rằng: Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên được vinh hiển thay, mà ở trần trước mặt các con đòi của tôi tớ vua, làm như một kẻ không ra gì vậy!  Đa-vít đáp với Mi-canh rằng: Ấy tại trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng đã chọn lấy ta làm hơn cha nàng và cả nhà người, lập ta làm vua chúa Y-sơ-ra-ên, là dân của Đức Giê-hô-va; phải, trước mặt Đức Giê-hô-va, ta có hát múa”” — II Samuên 6:20–21

Trong phần đọc Kinh thánh tuần nầy, Hòm Giao Ước đã được đưa về thành Jerusalem trong một đám rước mà Kinh thánh mô tả một cách đặc biệt là rất tưng bừng náo nhiệt. Phải, Vua David được mô tả là “múa nhảy trước mặt Đức Giêhôva” (II Samuên 6:16). Trong nỗi kháo khao muốn chứng tỏ tình cảm của mình dành cho Đức Chúa Trời, David đã nhảy múa  không chút xấu hổ. Tuy nhiên, khi David trở về nhà, vợ ông là Micanh, con gái của cựu vương Saulơ, đã có đôi lời với ông.

Micanh đã đón chồng mình bằng cách mắng mỏ cách thể hiện của chàng: Hôm nay vua Y-sơ-ra-ên được vinh hiển thay, mà ở trần trước mặt các con đòi của tôi tớ vua, làm như một kẻ không ra gì vậy! Micanh là con gái của hoàng tộc. Nàng vốn ý thức về cách xử sự của một nhân vật thuộc hoàng gia — và nàng nhận thấy cách biểu hiện của David là hoàn toàn không xứng hợp.

Giờ đây, hãy nghe phần đáp ứng của David: “Ấy tại trước mặt Đức Giê-hô-va, là Đấng đã chọn lấy ta làm hơn cha nàng và cả nhà người, lập ta làm vua chúa Y-sơ-ra-ên, là dân của Đức Giê-hô-va; phải, trước mặt Đức Giê-hô-va, ta có hát múa”. David chỉ ra rằng Đức Chúa Trời đã tước vương quốc ra khỏi tay Vua Saulơ và đã trao nước ấy cho ông. Nhưng Saulơ đã làm gì với sự kiện đặc biệt nầy? Tại sao lời đáp nầy của David phải có đối với sự chỉ trích của Micanh?

Có phải bạn nhớ tại sao Vua Saulơ đã bị Đức Chúa Trời chối bỏ không? Trong I Samuên 15 tiên tri Samuên đã đối diện với Vua Saulơ, ông đã được sai đi với một sứ mệnh phải tiêu diệt hoàn toàn xứ Amaléc gian ác kia, luôn cả các bầy gia súc của họ. Tuy nhiên, Saulơ đã để cho bầy gia súc được sống. Sau khi giải thích rõ sai trái của mình bằng cách nói rằng bầy gia súc ấy đã được tha để được dùng làm của lễ dâng cho Đức Chúa Trời, sau cùng thì Saulơ đã nhìn nhận tội lỗi của ông ta. Ông ta đã xưng tội trong câu 24: Tôi có phạm tội. Tôi đã can phạm mạng lịnh Đức Giê-hô-va, và lời của ông. Tôi sợ dân sự, nên nghe theo tiếng của họ”.
Sự việc hoàn toàn rất đơn giản; Saulơ vốn quan tâm nhiều về những gì dân sự nghĩ về ông hơn những điều Đức Chúa Trời sẽ nghĩ. Ông sợ người ta hơn là Đức Chúa Trời mình trong giây phút đó.
Giờ đây, chúng ta có thể hiểu lý do tại sao đây là đáp ứng của David đối với vợ của mình. Ông đã giải thích cho nàng biết rằng trong khi cha của nàng bị phế truất vì ông ấy quan tâm nhiều đến những gì dân sự suy nghĩ về ông ấy, còn David thì được thêm lên trong ánh mắt của Đức Chúa Trời khi gạt qua một bên những quan tâm đến cách mà người ta sẽ nhìn vào ông.


Đấy là một bài học rất tốt cho chúng ta. Khi đến cuối đời của chúng ta, chúng ta sẽ chỉ phải trả lời với Đức Chúa Trời. Chúng ta hãy lập Ngài là quan sát viên chính cho đời sống chúng ta và hãy chỉ sống để làm đẹp lòng Ngài — vô luận người khác có nghĩ như thế nào đi nữa. Sống như thế mới đáng gọi là sống ngay thẳng – và sống như thế mới xứng đáng với con cái hoàng tộc của Đức Chúa Trời.