Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

EM TÔI KHÔNG THEO VỀ, LÀM SAO TÔI DÁM


Em Tôi Không Theo Về, Làm Sao Tôi Dám

Vì, nếu đứa trẻ không theo về, làm sao tôi dám về cùng cha tôi? Oi, tôi nỡ nào thấy điều tai họa của cha tôi ư! — Sáng thế ký 44:34

Phần Kinh Thánh tuần này [Sáng thế ký 44:18 – 47:27; Êxêchiên 37:15-28] được chọn lọc ở giữa khoảnh khắc rất ấn tượng. Theo đòi hỏi của Giô-sép, các anh buộc phải đưa Bên-gia-min đến Ai-cập để bảo đảm cho Si-mê-ôn được thả ra khỏi nhà tù và để có được các sự tiếp trợ cứu mạng cho những gia đình bị đói kém của họ trong xứ Canaan.

Đưa Bên-gia-min xuống Ai-cập là điều rất liều lĩnh. Vì hết thảy các anh đều biết rõ, Giô-sép đã chết, và vì vậy họ nghĩ Bên-gia-min là đứa con duy nhất còn lại của Gia-cốp với người vợ yêu dấu của ông là Ra-chên. Và tại thời điểm này trong câu chuyện, các anh đã nhứt định nghĩ rằng mạng sống của Bên-gia-min đang ở trong chỗ nguy hiểm. Họ lo sợ và kinh hãi không những cho mạng sống em của họ, mà còn cho sự mạnh giỏi của cha mình, là Giacốp nữa, ông sẽ không sống nổi nếu các tin tức gây tàn phá như Bên-gia-min đã ngã chết.

Đây là chỗ mà phần đọc của chúng ta khởi sự. Giu-đa tiếp cận Giôsép, lòng tưởng rằng mình đang trao đổi với vị Thủ tướng xứ Ai-cập, và không nhận ra ông đang nói chuyện với người em lạc mất lâu nay của mình. Đây là thời điểm quan trọng. Giu-đa nài nĩ Giô-sép về mạng sống của Bên-gia-min, mà rằng: Vì, nếu đứa trẻ không theo về, làm sao tôi dám về cùng cha tôi?” Sau khi nhìn thấy các anh của ông đã thực sự học được bài học của họ – rằng họ sẽ không bao giờ xây lưng lại với nhau – Giô-sép không thể kềm lòng được nữa. Ông tỏ ra lai lịch thực của mình, tha thứ cho các anh vì những hành động sai trái trong quá khứ của họ và tuyên bố rằng ông sẽ tiếp trợ cho toàn bộ gia đình của ông.

Tôi muốn quay lại với lời lẽ cốt yếu mà Giu-đa đã thốt ra hàng ngàn năm trước, lời lẽ ấy đã vang dội trong hàng ngàn năm: Vì, nếu đứa trẻ không theo về, làm sao tôi dám về cùng cha tôi?” Ở một cấp độ khác, hỏi như thế là một câu mà hết thảy chúng ta đều cần phải hỏi bản thân mình: "Làm sao chúng tôi có thể trở về với Cha trên trời nếu không đi cùng với  anh chị em của chúng tôi chứ?" Nói cách khác, đối với chúng ta, sống nhơn đức và tin kính cũng chẳng phải là đủ đâu. Chúng ta cũng phải chịu trách nhiệm về mạng sống của các anh chị em của chúng ta nữa.

Chúng ta đọc trong Phục truyền luật lệ ký 14:1: "Các ngươi là con cái Giê-hô-va Đức Chúa Trời các ngươi". Hãy suy nghĩ về điều đó trong một phút xem. HẾT THẢY chúng ta là con cái của Đức Chúa Trời. Là anh chị em, chúng ta phải lo lắng và quan tâm đến sự mạnh giỏi cả về phần xác và phần hồn của nhau. Làm sao chúng ta có thể trở về với Cha chúng ta ở trên trời mà không thể nói rằng chúng ta đã làm hết sức mình để giúp đỡ các anh chị em của mình?

Trong tiếng Hy-bá-lai, chữ thường dùng nói tới sự nhơn từ là tzedakah, cùng một ý nghĩa với chữ Hy-bá-lai nói tới sự công bình. Sở dĩ như vậy là vì nhơn từ không những là một sự nhơn từ trong Do-thái giáo. Mà nó còn là công bình; đó là nghĩa vụ về mặt thuộc linh và về xã hội của chúng ta nữa. Chúng ta phải chìa bàn tay giúp đỡ tha nhân. Chúng ta phải quan tâm đến nhu cần về phần xác và sự mạnh giỏi về mặt thuộc linh nữa. Như vậy, khi chúng ta đến tại hai cánh cổng thiên đàng, chúng ta sẽ có thể nói với Cha của chúng ta rằng, phải, chúng tôi cũng đã đưa con cái Ngài về quê hương nữa.


Thứ Năm, 21 tháng 12, 2017

GIỜ THỨ MƯỜI MỘT


Giờ Thứ Mười Một

Vì Ngài giải cứu tôi khỏi mọi mỗi gian truân; Mắt tôi thấy sự báo trả cho kẻ thù nghịch tôi — Thi thiên 54:7

Đôi khi ơn cứu rỗi đến từ Đức Chúa Trời trước khi chúng ta nhìn biết rằng chúng ta đang ở trong chỗ nguy hiểm nữa kìa. Có nhiều khi, chúng ta ý thức được nguy cơ sắp xảy ra; chúng ta nài xin sự vùa giúp của Chúa, và chúng ta để ý thấy rằng chúng ta được cứu khỏi những rối rắm của mình. Tuy nhiên, cũng có những lúc khi chúng ta nhìn biết rằng những rắc rối nghiêm trọng ấy đang hướng về phía chúng ta, và chúng ta nài nĩ xin Đức Chúa Trời cứu giúp cho, và thế mà, sự cứu ấy không đến – ít nhất là nó chẳng đến liền đâu.

Loại chờ đợi được như thế này là đề tài của Thi thiên 54. Như phần giới thiệu đã chỉ ra, Thi thiên này đã được viết ra khi người Xíp muốn nộp Đa-vít cho vua Sau-lơ, là người đi ra ngoài đặng tìm giết ông. Khi chúng ta nhìn vào bối cảnh của biến cố này trong I Sa-mu-ên 23, sự phản bội của họ thậm chí còn trầm trọng hơn thế nữa.

Đa-vít đã chạy trốn khỏi Sau-lơ, đi từ nơi nầy đến chỗ kia, cho tới lúc sau cùng, ông nhìn thấy sự yên ắng trong đồng vắng Xíp. Đa-vít biết rõ Sau-lơ vẫn đang tìm bắt ông, nhưng như Thánh Kinh cho chúng ta biết, Đức Chúa Trời đã không cho phép Sau-lơ bắt lấy Đa-vít. Giô-na-than, con ruột của Sau-lơ nhưng lại là người hỗ trợ trước sau như một cho Đa-vít, thậm chí đã đến với Đa-vít thêm sức cho ông trong đức tin, hứa với ông rằng Đức Chúa Trời sẽ bảo hộ ông và một ngày kia ông sẽ lên ngôi làm vua. Tấm lòng của Đa-vít được xoa dịu và mọi thứ đều lắng xuống.

Tại thời điểm này, Sau-lơ thực sự bỏ cuộc và quay trở về nhà. Sau mọi thời điểm Sau-lơ tìm bắt cho kỳ được Đa-vít, dường như cuối cùng cũng qua đi. Đa-vít hít một hơi dài thật nhẹ nhõm. Và chính xác như thế khi người Xíp – họ biết rõ Đa-vít đang ẩn trốn giữa vòng họ – tẻ tách và phản bội ông. Họ đến gặp Sau-lơ và cho ông ta biết chính xác nơi Đa-vít đang ẩn trốn.

Đây là lúc Đa-vít đã cầu nguyện. Ông đã bị bỏ rơi, bị phản bội. Nhưng ông đã không từ bỏ đức tin mình nơi Đức Chúa Trời. Trong câu cuối của Thi thiên này, ông đã khẳng định đức tin mình nơi Đức Chúa Trời như sau: Vì Ngài giải cứu tôi khỏi mọi mỗi gian truân; Mắt tôi thấy sự báo trả cho kẻ thù nghịch tôi. Thực vậy, Đa-vít đang nói rằng khi mọi sự dường xấu xa, ông biết rõ Đức Chúa Trời, Ngài đã cứu ông khỏi mọi sự khác, sẽ đến để cứu ông một lần nữa.

Và Đức Chúa Trời đã làm y như thế.

Vào phút chót, giống như Sau-lơ sắp sửa bắt được Đa-vít, Đức Chúa Trời đã sai một sứ giả đến báo cho Sau-lơ biết một cuộc tấn công "bất ngờ" từ dân Phi-li-tin. Sau-lơ buộc phải để Đa-vít lại đó để lo bảo vệ Israel. Trong giờ thứ mười một, Ða-vít đã được cứu.

Tôi muốn khuyên tất cả chúng ta đừng bao giờ từ bỏ ơn cứu rỗi của Đức Chúa Trời. Ngay cả khi dường như thời gian đã hết và chúng ta chẳng có một sự lựa chọn nào nữa, Đức Chúa Trời vẫn có thể giải cứu chúng ta. Giống như Ngài đã làm có hàng triệu lần trước đây, Đức Chúa Trời của chúng ta có thể bày ra những phép lạ – ngay cả đến giờ thứ mười một.


Thứ Tư, 20 tháng 12, 2017

HÃY TRỞ THÀNH NGUỒN SÁNG


Hãy Trở Thành Nguồn Sáng

Ngài có phán cùng ta rằng: Ngươi làm tôi tớ ta đặng lập lại các chi phái Gia-cốp, và làm cho những kẻ được gìn giữ của Y-sơ-ra-ên lại được trở về, còn là việc nhỏ; ta sẽ khiến ngươi làm sự sáng cho các dân ngoại, hầu cho ngươi làm sự cứu rỗi của ta đến nơi đầu cùng đất — Êsai 49:6

Hôm nay là ngày thứ sáu lễ Hanukkah, cũng được biết là lễ rước đèn, một sự tưởng niệm hai phép lạ: chiến thắng của người Do-thái đối với quân Hy-lạp và cái bình dầu nhỏ đã giữ cho ngọn đèn menorah của Đền Thờ cứ cháy trong tám ngày.

Một câu tục ngữ xưa nói: "Thà là thắp đèn cầy hơn là cứ rủa sả bóng tối".

Bậc thánh hiền Do-thái quyết định lập Hanukkah là một kỳ lễ cho mọi thế hệ, đã có một cuộc tranh cải phải tỏ ra chính xác nghi thức cách thắp đèn menorah trong kỳ lễ Hanukkah ấy. Nói tóm lại, chúng ta đang kỷ niệm sự thực khi người Do-thái tái chiếm Đền Thờ từ người Hy-lạp khoảng 2.000 năm trước, họ chỉ có thể tìm thấy một bình dầu ôliu nhỏ, tinh khiết để thắp đèn menorah, đèn 7 ngọn trong Đền Thờ. Kỳ diệu thay, bình dầu đó, chỉ đủ cho một ngày và đêm, lại kéo dài trong tám đêm. Hôm nay, chúng ta nhớ lại phép lạ bằng cách thắp sáng những cây đèm chùm của chúng ta trong tám đêm.

Cách chúng ta thắp sáng những cây đèn là điều mà bậc thánh hiền đã tranh cãi. Một vị hiền triết, là Hillel, quyết định rằng cứ mỗi đêm, một ngọn đèn khác nên được thêm vào và thắp sáng. Do vậy, vào đêm thứ nhứt, chỉ có một ngọn nến được thắp sáng, rồi đến đêm thứ tám, tám ngọn đèn sẽ được thắp lên. Một vị hiền triết nữa, là Shammai, đề nghị ngược lại. Ông tin rằng vào đêm đầu tiên, chúng ta nên thắp sáng cả tám ngọn đèn rồi sau đó trừ đi một ngọn đèm cho mỗi đêm đến khi chúng ta chỉ để lại một ngọn đèn vào đêm thứ tám.

Tranh cãi này nói về nhiều hơn tám ngọn đèn và thứ tự mà chúng sẽ được thắp sáng. Dựa theo mỗi lập luận là một hệ thống tín điều và một gợi ý để hoàn thiện thế giới của Đức Chúa Trời.

Theo Shammai, vị hiền triết đã ủng hộ việc trừ đi một ngọn đèn mỗi đêm, cách để biến thế giới ra một chỗ tốt đẹp hơn là tiêu diệt tà ác. Lửa của ngọn đèn là một biểu tượng của sự hủy diệt. Shammai tin rằng chúng ta cần phải thiêu đốt điều ác trong thế gian. Lúc đầu, chúng ta cần rất nhiều lửa. Song khi chúng ta tiêu diệt được nhiều điều ác, chúng ta cần ít lửa hơn, cho đến chẳng còn cần đến lửa nữa.

Mặt khác, Hillel cảm thấy phương thức để chống lại sự tối tăm là phải thắp lên nhiều ngọn đèn hơn. Hillel tin rằng sự hủy diệt hoàn toàn điều ác là một sự mạo hiểm là không thực tế và rất tốn kém. Thay vì thế, chúng ta thêm nhiều việc lành và sự tin kính vào trong thế gian cho đến khi cái ác không còn có chỗ trong đó nữa. Đây là lý do tại sao chúng ta thắp một ngọn nến vào đêm đầu tiên — một chút ánh sáng — và chúng ta thêm thật nhiều ngọn đèn hơn cho đến đêm thứ tám, cả gian phòng đều tỏa sáng.

Sau cùng, chúng ta làm theo ý kiến ​​của Hillel. Chúng ta thắp lên các ngọn đèn bằng cách thêm một ngọn đèn vào mỗi đêm. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải làm theo lời khuyên của Hillel cho suốt cả năm nữa. Như Đức Chúa Trời đã truyền, chúng ta cần phải trở thành sự sáng và thêm ánh sáng vào trong thế gian. Hãy mở rộng sự ấm áp và lòng thương xót; hãy chiếu sáng bằng sự tử tế và tình yêu thương. Đồng thời, chúng ta có thể tiêu diệt hết bóng tối tăm và tạo ra một thế giới sáng láng.