Tình Yêu Của Chính Mình
“Đức Giê-hô-va có phán: Ta yêu các ngươi; và
các ngươi nói rằng: Chúa yêu chúng tôi ở đâu? Đức Giê-hô-va phán: Ê-sau há
chẳng phải là anh Gia-cốp sao? Nhưng ta yêu Gia-cốp, mà ghét Ê-sau, ta làm cho
những núi nó nên hoang vu, và phó sản nghiệp nó cho những chó nơi đồng vắng” — Malachi
1:2–3
Tiểu đoạn Kinh Thánh Toldot của
người Do thái đưa chúng ta đến với thời buổi của tiên tri Malachi. Vào thời buổi
ấy, sự phu tù ở Babylôn đã kết thúc, người Do Thái đã được phép trở về Israel và
lo tái thiết lại Đền Thờ. Đây sẽ là thời điểm của vui mừng và kỷ niệm, nhưng mọi
việc đều không được trọn vẹn. Đất Thánh đã ở trong tình trạng hỗn độn, nghèo
đói tràn lan, đồi bại có ở khắp mọi nơi, và đền thờ mới được cấu trúc lại không
được vinh hiển so với đền thờ đầu tiên mà nó thế chỗ. Thái độ và đạo đức của
dân chúng lại ở điểm thấp khi Malachi xuất hiện với hai việc: yên ủi dân sự và chỉnh
đốn lối sống của họ.
Malachi khởi sự với phần khích lệ, ông nói
cho mọi người biết rằng Đức Chúa Trời yêu thương họ, nhưng dân sự đáp: "Làm gì có chuyện đó? Ngài yêu chúng tôi chỗ nào chứ?" Bậc thánh hiền Do
thái giải thích rằng dân sự trong thời của Malachi cảm thấy họ không xứng đáng
và không đáng thương. Họ đã tin rằng bất kỳ ân điển nào tỏ ra cho họ bởi Đức
Chúa Trời chỉ vì cớ công đức của tổ phụ họ là Ápraham, Ysác và Giacốp mà thôi.
Nhưng Đức Chúa Trời bảo họ: “Ê-sau há chẳng phải là anh Gia-cốp sao? Nhưng
ta yêu Gia-cốp, mà ghét Ê-sau”. Nói cách khác, nếu logic đó là thật, thế thì
Đức Chúa Trời cũng đã có thể yêu Êsau. Rốt lại, ông cũng là dòng dõi của các vị
tộc trưởng! Đức Chúa Trời đang nói cho dân sự biết rằng tình yêu của Ngài dành
cho các vị tộc trưởng hẳn nhiên là như thế. Cuối cùng, mối quan hệ của một người
với Đức Chúa Trời xuống thấp đối với người đó và Đức Chúa Trời.
Ba lần một ngày, một người Do Thái hay quan
sát nói sự cầu nguyện của người Do Thái được gọi là Amidah. Nó bắt đầu: "Phước cho Ngài
là Đức Chúa Trời, Đức Chúa Trời của chúng con, và là Đức Chúa Trời của tổ phụ
chúng con…". Bậc thánh hiền dạy rằng chúng ta công nhận Đức Chúa Trời là Đức
Chúa Trời của riêng cá nhân chúng ta trước khi chúng ta nhắc Ngài là Đức Chúa
Trời của tổ phụ chúng ta để nhấn mạnh rằng mối quan hệ của chúng ta với Đức
Chúa Trời là mối quan hệ của cá nhân.
Chắc chắn, hết thảy chúng ta đều có phước
do là những người thừa kế thuộc linh của những người nam người nữ thánh khiết
và yêu quí thể ấy, nhưng bấy nhiêu vẫn chưa phải là đủ đâu. Nếu chúng ta thờ
phượng Đức Chúa Trời chỉ vì cha mẹ của chúng ta đã thờ phượng, chừng ấy vẫn
chưa phải là đủ đâu. Nếu chúng ta đi nhà thờ hay đến với nhà hội chỉ vì đó là
truyền thống của gia đình chúng ta, thì việc ấy cũng chưa phải là đủ. Trước tiên
chúng ta phải khám phá ra sự kết nối của chính chúng ta với Đức Chúa Trời kìa,
và chỉn khi ấy chúng ta mới có thể thưởng thức những ơn phước trong di sản của
chúng ta.
Đức Chúa Trời không theo kiểu di truyền
đâu. Mối quan hệ với Ngài cần phải kiếm được và được vung vén của mỗi cá nhân nào
đang bước đi trên đất này. Hết thảy chúng ta phải nếm trải những thử thách của chính
mình và phát triển đức tin của chính chúng ta. Rồi sau đó, khi Ngài yêu thương
chúng ta, điều đó sẽ là vì cớ riêng của chúng ta mà không dựa trên các mối quan
hệ trong gia đình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét